Lâm triều xưng chế Võ_Tắc_Thiên

Phế truất Trung Tông

Năm Vĩnh Thuần thứ 2 (683), Thiên Hoàng di giá Phụng Thiên cung (奉天宮) lâm bệnh. Biết mình không xong, ông bèn triệu Hoàng thái tử Lý Hiển từ Trường An về Lạc Dương, mệnh Thái tử giám quốc và giao cho đại thần Bùi Viêm cùng Lưu Cảnh Tiên (劉景先) và Quách Chính Nhất (郭正一) cùng phụ chính. Sau đó, ông chuyển về Lạc Dương, bệnh chuyển nặng hơn, Tể tướng cùng đại thần đều không thể tấn kiến.

Ngày 4 tháng 12 (tức ngày 27 tháng 12 dương lịch), Thiên Hoàng băng hà ở Trinh Quán điện (貞觀殿). Khi ông lâm chung, cho cận thần viết di chiếu: ["Sau 7 ngày tạm quàn, Hoàng thái tử tức Hoàng đế vị trước Linh tiền. Về chế độ Viên lăng, nên chủ trương tiết kiệm. Quân quốc đại sự có việc không thể quyết định, liền nhờ Thiên Hậu quyết định"; 七日而殯,皇太子即位于柩前。園陵制度,務從節儉。軍國大事有不決者,取天后處分。][52][53]. Hoàng thái tử Lý Hiển nối ngôi, tức là Đường Trung Tông. Thiên Hậu trở thành Hoàng thái hậu, là Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Đường, và cũng là Thái hậu đầu tiên của triều đại này thực hiện [Lâm triều xưng chế; 臨朝稱制][54]. Lúc mới lên ngôi, Trung Tông phải chịu tang, căn cứ theo di chiếu của Cao Tông, mọi việc trong triều đều do Võ Thái hậu quyết đoán[55].

Năm Tự Thánh nguyên niên (684), tháng 2 (ÂL), Trung Tông muốn tạo đối trọng với Võ Thái hậu trong triều, nên phong nhạc phụ Vi Huyền Trinh làm Thị trung trông coi Môn hạ tỉnh, quyền uy quá lớn trong khi họ Vi không có tài cán. Tể tướng Bùi Viêm hết sức can ngăn nhưng Trung Tông không nghe, nói lại: ["Ta đem cả thiên hạ cho Vi Huyền Trinh còn được, huống hồ một chức Thị trung lang sao?!"]. Bùi Viêm cố cãi lại không được, bèn mật cáo với Thái hậu. Ngày 26 tháng 2 (dương lịch), Thái hậu được Bùi Viêm, Lưu Y Chi, Trình Vụ Đĩnh, Trương Kiền Úc... đưa vào triều, tuyên chiếu phế truất Trung Tông làm Lư Lăng vương. Khi bị lôi xuống, Trung Tông cố hỏi: ["Con có tội gì?!"], Võ Thái hậu đanh thép đáp: ["Nhà ngươi đem thiên hạ đưa cho Vi Huyền Trinh, còn không có tội ư?!"], do đó Thái hậu bèn giam Trung Tông vào biệt cung. Thái hậu đưa Dự vương Lý Đán lên ngôi, tức là Đường Duệ Tông. Cải niên hiệu thành Văn Minh.

Võ Thái hậu tên Lư Lăng vương là ["Triết"], mệnh lệnh đày ra Quân Châu rồi Phòng Châu, ở ngôi nhà mà Bộc vương Lý Thái từng ở sau khi bị Thái Tông giáng tước. Sau khi lập Duệ Tông, bà tiếp tục xưng Chế, tự mình chuyên chính như trước. Bà lập tức hạ chiếu nói Vi Huyền Trinh mưu nghịch, tước tất cả chức vị, giáng làm thứ dân và tống vào ngục, sau cũng bị lưu đày. Đường Duệ Tông Lý Đán khi ấy tuy ở ngôi vị, nhưng bị ép phải sống ở cung riêng, không được tham gia chính sự. Việc lớn nhỏ trong triều đều do Võ Thái hậu quyết đoán. Bà còn cho phế con trai của Lư Lăng vương là Lý Trọng Chiếu làm Thứ nhân, cho lập con trai của Tân Đế là Lý Thành Khí kế thừa vị trí Trữ quân.

Độc bá triều cương

Ngày Giáp Tý tháng ấy (ÂL), Võ Thái hậu ngự ở Võ Thành điện (武成殿), Duệ Tông suất Vương công đến dâng tôn hiệu. Mấy hôm sau, sai Võ Thừa Tự công bố chế sách lập Hoàng đế mới. Từ lúc này, Thái hậu lên triều nghe chính ở Tử Thần điện (紫宸殿), không cần phải buông rèm, cứ ra thẳng ghế rồng mà nghe quần thần tấu sự[52]. Vừa yên vị, Võ Thái hậu mệnh Thái thường khanh, Kiểm giáo Dự vương phủ Vương Đức Chân làm Thị trung, Trung thư Thị lang Lưu Y Chi và Lễ bộ Thượng thư Võ Thừa Tự làm Đồng trung thư Môn hạ Bình chương sự. Lúc này Thái tử bị truất phế trước đây, Lý Hiền, đã bị ép phải uống rượu độc mà chết, Thái hậu liền đổ hết trách nhiệm cho Khâu Thần Tích, biếm làm Thứ sử Điệp Châu (nhưng không lâu sau thì phục chức), rồi truy tặng Lý Hiền là Ung vương.

Tháng 9 (ÂL) cùng năm, Thái hậu cải nguyên là Văn Minh, đổi Đông Đô Lạc Dương thành Thần Đô. Cung riêng của bà gọi là Thái Sơ cung (太初宮), ngự chế cờ xý đều dùng sắc vàng, lại cho cải Thượng thư tỉnh là Văn Xương đài, Tả hữu bộc xạ là Tả Hữu tướng; Lục tào thành Lục quan; Trung thư tỉnh đổi là Phụng các; Thị trung là Nạp ngôn; Trung thư lệnh là Nội sử lệnh; Ngự sử đài thành Tả túc chánh đài[56]. Từ năm đầu Thùy Củng (685), Võ Thái hậu bắt đầu dan díu với tên Hòa thượng giả danh, gọi là Tiết Hoài Nghĩa. Sau đó, Tiết Hoài Nghĩa dần được phong các chức vụ cao, cùng với Thái hậu làm nhơ bẩn hậu cung[52][57][58]. Tiết Hoài Nghĩa là người đất Hộ, nguyên danh là "Phùng Tiểu Bảo", một lần được con gái nuôi của Thái hậu là Thiên Kim công chúa tiến cử, Thái hậu nhìn thấy liền rất ưa thích, bèn cho giả làm Tăng sư với tên ["Hoài Nghĩa"], cho theo họ với Phò mã Tiết Thiệu. Được sủng ái, Tiết Hoài Nghĩa tự do ra vào cung cấm, thế lực rất lớn; đến cả Võ Thừa Tự, Võ Tam Tư cũng tìm cách lấy lòng. Hoài Nghĩa tụ tập nhiều bọn côn đồ giả làm tăng, hoành hành bá đạo khắp nơi không coi ai ra gì. Có Hữu đài Ngự sử Phùng Tư Úc lên tiếng chỉ trích, liền bị bọn này đánh chết[52].

Năm Thùy Củng thứ 2 (686), mùa xuân, Võ Thái hậu hạ cảm thấy muốn xoa dịu tình hình, bèn hạ chiếu giao lại chính quyền do Duệ Tông. Thế nhưng Duệ Tông biết mẫu hậu không thực tâm, nên không dám chấp nhận, vẫn "cố gắng" khuyên mẹ mình tiếp tục tại vị. Võ Thái hậu nhân danh nghĩa đó mà tiếp tục lâm triều xưng chế[59].

Loạn đảng chống đối

Tượng Phật bằng đá được tạc dưới thời Võ Chu.

Cuối năm Tự Thánh (684), Thứ sử Mi Châu, Anh Quốc công Lý Kính Nghiệp (gọi Từ Kính Nghiệp), cháu của Anh Trinh Vũ công Lý Tích, cùng em là Lý Kính Du và các thuộc tướng như Đường Chi Kỳ, Lạc Tân Vương, Đỗ Cầu... hợp nhau nổi dậy ở Dương Châu[60], lấy danh nghĩa khôi phục Đường Trung Tông.

Bọn họ loan tin trưởng sử Trần Kính Chi mưu phản để Kính Chi bị bắt vào ngục, mấy hôm sau thì Kính Nghiệp tiến hành nổi dậy, xưng niên hiệu cũ là Tự Thánh, xưng Khương phục phủ Thượng tướng, Dương Châu đại đô đốc; sai Lạc Tân Vương viết hịch kể tội Thái hậu gửi đi khắp nơi. Kính Nghiệp lại trá xưng là Thái tử Lý Hiền vẫn còn sống và đang ở chỗ mình. Thái hậu sai Lý Hiếu Dật làm Tương Châu đại tổng quản, dẫn 300.000 quân cùng Lý Tri Sĩ, Mã Kính Thần làm phó, thảo phạt Kính Nghiệp. Khi bà hỏi Bùi Viêm về kế sách đối với quân phản loạn, Viêm nói rằng Hoàng đế đã lớn tuổi, chỉ cần Thái hậu giao trả quyền chính thì tất vô sự. Thái hậu tức giận, giam Viêm vào ngục, đưa Kiến Vị Đạo, Lý Cảnh Kham lên thay; sau đó khép Bùi Viêm vào tội chết; lại lưu đày những người nói hộ cho Viêm[52]. Lý Kính Nghiệp đưa quân đánh sang Nhuận Châu. Thái hậu tước chức quan của ông ta, bắt trở về họ Từ. Lúc này quân của Lý Hiếu Dật không thu được thành quả nào, Hiếu Dật tỏ ra nao núng. Nhưng có tướng dưới quyền Ngụy Nguyên Trung khích lệ, Hiếu Dật mới quyết tâm hơn, cho quân đánh mạnh vào lực lượng của Từ Kính Nghiệp. Sau đó Kính Nghiệp đại bại, phải bỏ trốn. Tướng Vương Na Tướng làm phản giết anh em Kính Nghiệp, Lạc Tân Vương rồi ra hàng, cuộc nổi dậy bị dẹp tan.

Sau vụ của Từ Kính Nghiệp, Thái hậu sợ rằng các đại thần và tông thất oán mình chuyên quyền, nên tìm cách trừ khử bớt đi. Vào cùng năm ấy, Võ Thái hậu sai chế ra một cái hộp bằng đồng đặt trước triều đường, để cho những người hiến kế hay hoặc dự báo được tinh tượng, hoặc muốn tố cáo gian ác, hoặc muốn tiến cử nhân tài... mà ngại không dám nói thì cho bỏ thư vào đó. Ý của Thái hậu là để cho người ta bỏ thư tố cáo bí mật của người khác, nhất là các đại thần đang bị Thái hậu nghi ngờ để bà có cớ xử tội họ. Thường thì những người bị tố cáo, Thái hậu xử tội mà không cần tra xét gì cả.

Có người Hồ là Sách Nguyên Lễ đoán biết ý, nên dùng chuyện cáo mật mà được phong làm Du kích tướng quân. Nguyễn Lễ tính tình tàn nhẫn, thích dùng ngục hình, thường thì một người bị tố cáo thì lôi ra cái mà hắn gọi là "đồng đảng" hơn 10 người, dùng hình rất nặng khiến ai ai cũng bất an. Lại có bọn ngục lại là Chu Hưng, Lai Tuấn Thần cũng thừa cơ mượn gió bẻ măng; Hưng được phong Thu quan thượng thư còn Tuấn Thần làm tới Ngự sử trung thừa. Bọn này hè nhau mượn việc cáo mật mà vu oan, hãm hại người khác, làm triều chính mấy phen điên đảo; lại còn chế ra nhiều cực hình tàn khốc để hành hạ phạm nhân: định bách mạch, đột địa hống, tử trư sầu, cầu phá gia, phụng hoàng sái sí, lư câu bạt quyệt, ngọc nữ đăng thê. Mỗi lần có đại xá, Tuấn Thần lại ra giết hết người phạm tội nặng rồi mới ban lệnh xá, thế mà Thái hậu vẫn cho là trung thành và càng tín nhiệm[61]. Đại thần Lưu Y Chi lúc này được phong làm Tể tướng. Vào năm Thùy Củng thứ 3 (687), ông ta dâng biểu đề nghị Thái hậu giao trả chính quyền. Thái hậu rất tức giận, lúc đó lại có tin đồn là Y Chi tư thông với thiếp của Hứa Kính Tông, thế là Võ Thái hậu sai người bắt ông ta vào ngục. Đường Duệ Tông nghe vậy muốn cứu Tể tướng, nhưng Y Chi cho rằng hành động của Duệ Tông sẽ càng làm mình chết chóng. Quả nhiên ông ta liền bị Thái hậu xử tử[57].

Dần dần, Võ Thái hậu đã lộ rõ có ý soán ngôi, nên tìm cách loại trừ một số tôn thất nhà Đường mang họ Lý, như Hàn vương Lý Nguyên Gia, Hoắc vương Lý Nguyên Quỹ, Lỗ vương Lý Linh Quỳ, Việt vương Lý Trinh, Giang Đô vương Lý Tự, Phạm Dương vương Lý Ái, Đông Hoàn công Lý Dung và Lang Tà vương Lý Xung - con Việt vương. Việt vương Lý Trinh cũng biết ý đó, tỏ ra bất an và muốn nổi dậy. Mùa thu năm Thùy Củng thứ 4 (688), tháng 8 (ÂL), Lang Tà vương Lý Xung triệu tập quân các nơi cùng đánh vào Thần Đô Lạc Dương, Thái hậu sai Khâu Thần Tích dẫn quân thảo phạt, ngay sau đó thì Việt vương Lý Trinh khởi binh từ Dự Châu[62], còn Lý Xung từ Bác Châu[63]. Tuy nhiên các lộ chư hầu khác vẫn chưa kịp khởi binh, do đó lực lượng của ông bị đè bẹp nhanh chóng. Cuối cùng Lý Xung bị tên giữ thành Bác Châu giết chết, hơn 1000 quan lại cũng bị liên can và bị Khâu Thần Tích giết chết, Lý Trinh cũng bị đánh bại liên tục và phải tự tử trong thành. Thái hậu hạ chiếu đổi họ của cha con Việt vương thành ["họ Hủy"], rồi còn nhân đó bắt tội Hàn vương, Lỗ vương, Thường Lạc Công chúa, Hoàng công Lý Soạn, bắt họ tự sát rồi đổi tất cả sang họ Hủy hết thảy[57]. Phò mã Tiết Thiệu cùng hai anh là Tiết Nghĩ, Tiết Tự cũng bị liên can, Nghĩ và Tự bị giết, Thiệu bị đánh 100 trượng rồi cũng chết trong ngục.

Truy phong họ Võ

Năm Quang Trạch nguyên niên (684), tháng 9, người trong họ Võ Thái hậu là Võ Thừa Tự dâng biểu xin truy phong cho tổ tiên họ Võ lên tước Vương, lập nên [Võ thị Thất miếu; 武氏七廟], có ý khuếch trương dòng dõi nhà họ Võ.

Thái hậu nghe thế mà bằng lòng, thế nhưng truy phong tước Vương là thuộc điều cấm kị của rất nhiều triều đại, trong đó có nhà Đường. Tể thần là Bùi Viêm lại dẫn câu chuyện Lã hậu thời nhà Hán khi trước ra can ngăn, nói rằng: ["Thái hậu mẫu lâm thiên hạ, nên chí công vô tư mới phải. Ngài quên cái bại của họ Lã khi xưa chăng?!"]. Hoàng thái hậu không nghe, nói lại: ["Lã hậu đó là cậy quyền phong cho người sống. Nay ta truy phong người chết, có hại gì?"]. Bèn truy phong tổ 6 đời là Võ Khắc Kỷ làm Lỗ Tĩnh công; tổ 5 đời là Võ Cư Thường làm Thái úy, Bắc Bình Cung Túc vương; tằng tổ Võ Kiệm là Thái úy, Kim Thành Nghĩa Khang vương; tổ phụ Võ Hoa là Thái uý, Thái Nguyên An Thành vương. Còn thân phụ Võ Sĩ Hoạch làm Thái sư, Ngụy Định vương, không lâu sau lại cho đổi thành Ngụy Trung Hiếu vương. Còn tất cả các nữ quyến, đều truy phong làm Phi. Cho người xây Từ đường Ngũ đại tại quê nhà Văn Thủy[64].

Năm Vĩnh Xương nguyên niên (689), mùa xuân, Võ Thái hậu tôn Ngụy Trung Hiếu vương thành Chu Trung Hiếu Thái hoàng, vợ là Trung Hiếu Thái hậu, thiết mộ gọi là Chương Đức lăng (章德陵). Lỗ công là Thái Nguyên Tĩnh vương; Bắc Bình vương là Triệu Cung Túc vương, Kim Thành Nghĩa Khang vương là Ngụy Nghĩa Khang vương; Thái Nguyên vương là Chu An Thành vương[65].

Liên quan